Thanh Hóa là tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam
và là một tỉnh lớn, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số trong số
các đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, cũng là một trong những
địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt.
Cách đây khoảng 6000 năm đã có người sinh sống tại Thanh Hóa. Các di
chỉ khảo cổ cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây là văn hóa Đa Bút. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hóa Đông Sơn,
Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn
hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Và sau đó là nền văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã toả sáng rực rỡ trong đất nước của các vua Hùng.[2]
Thanh Hóa là tỉnh chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam trên nhiều phương diện. Về hành chính, Thanh Hóa là tỉnh cực bắc Trung Bộ, tiếp giáp với Tây Bắc Bộ và đồng bằng Bắc Bộ. Về địa chất, miền núi Thanh Hóa là sự nối dài của Tây Bắc Bộ trong khi đồng bằng Thanh Hóa là đồng bằng lớn nhất Trung Bộ, ngoài ra một phần nhỏ (phía bắc huyện Nga Sơn) thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng. Về khí hậu, Thanh Hóa vừa có kiểu khí hậu của miền Bắc lại vừa mang những hình thái khí hậu của miền Trung. Về ngôn ngữ, phần lớn người dân nói phương ngữ Thanh Hóa với vốn từ vựng khá giống từ vựng của phương ngữ Nghệ Tĩnh song âm vực lại khá gần với phương ngữ Bắc Bộ. Thanh Hóa bao gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện, với diện tích 11.133,4 km2 và số dân 3,405 triệu người với 7 dân tộc Kinh, Mường, Thái, H'mông, Dao, Thổ, Khơ-mú[3], trong đó có khoảng 355,4 nghìn người sống ở thành thị.[4] Năm 2005 Thanh Hóa 2,16 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm tỷ lệ 58,8% dân số toàn tỉnh, lao động đã qua đào tạo chiếm 27%, trong đó lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 5,4%.[2] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
1.
Thời Lê - Nguyễn
Năm
Thuận Thiên thứ nhất (năm 1428), chia nước làm 5 đạo, Thanh Hoá thuộc Hải Tây
đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (năm 1466) đặt tên là Thừa Tuyên Thanh Hoá; đến
năm Quang Thuận thứ 10 (năm 1469) đổi là Thừa Tuyên Thanh Hoa, tên Thanh Hoa
có từ đây. Thanh Hoa Thừa Tuyên theo "Thiên Nam dư hạ tập" lãnh 4
phủ, 16 huyện và 4 châu.
2. Thời
Trần - Hồ1) Phủ Thiệu Thiên gồm 8 huyện: Lương Giang, Ðông Sơn, Lôi Dương, Yên Ðịnh, Vĩnh Ninh, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành và Bình Giang. 2) Phủ Hà Trung gồm 4 huyện: Tống Giang, Hoằng Hoá, Thuần Hựu và Nga Giang. 3) Phủ Tĩnh Ninh gồm 3 huyện: Ngọc Sơn, Quảng Xương, Nông Cống. 4) Phủ Thanh Ðô chỉ có 1 huyện là Thọ Xuân. Thời Hồng Thuận (Lê Tương Dực 1509 - 1516), Thừa Tuyên Thanh Hoa lại đổi là trấn Thanh Hoa. Thời Lê Trung Hưng (1553 - 1788) gọi là nội trấn Thanh Hoa, sáp nhập thêm hai phủ Trường Yên và Thiên Quan của trấn Sơn Nam lệ vào trấn Thanh Hoa, gọi là ngoại trấn Thanh Hoa. Thời Tây Sơn lấy ngoại trấn Thanh Hoa lệ vào Bắc thành, tách khỏi nội trấn Thanh Hoa. Tên "trấn Thanh Hoa" được giữ cho đến năm 1831. Năm Minh Mệnh thứ 12 lấy nội trấn làm tỉnh Thanh Hoa và ngoại trấn làm tỉnh Ninh Bình, tên tỉnh Thanh Hoa có từ đây. Năm Thiệu Trị thứ 3 (năm 1843) đổi tên Thanh Hoa thành Thanh Hoá - đánh dấu sự ra đời của tên tỉnh Thanh Hoá. Tỉnh Thanh Hoá thời Nguyễn Sơ (Gia Long - Minh Mạng) gồm 4 phủ; 20 huyện, châu, thủy cơ; 89 tổng; 1.645 xã, thôn, động, sở. Trong đó: 1) Phủ Hà Trung gồm 4 huyện: huyện Tống Sơn (huyện Hà Trung ngày nay); huyện Hoằng Hoá; huyện Phong Lộc (Hậu Lộc ngày nay) và huyện Nga Sơn. 2) Phủ Thiệu Thiên (đời Lê Quang Thuận gọi là phủ Thiệu Thiên, sau Gia Long đổi thành Thiệu Hoá) gồm 8 huyện: huyện Quảng Bằng (là phần đất của huyện Thạch Thành ngày nay); huyện Thạch Thành (là phần đất Ðông Nam huyện Thạch Thành ngày nay); huyện Thuỵ Nguyên (tương đương với phần đất Thiệu Hoá, một phần Thọ Xuân và Ngọc Lặc hiện nay); huyện Yên Ðịnh; huyện Lôi Dương (tương đương phần đất Thọ Xuân, Thường Xuân ngày nay); huyện Vĩnh Lộc; huyện Ðông Sơn; huyện Cẩm Thuỷ (tương đương phần đất huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước và một phần huyện Quan Hoá ngày nay). 3) Phủ Tĩnh Gia: đời Lê Quang Thuận là phủ Tĩnh Ninh, đến thời Trung Hưng vì kiêng huý của Lê Trang Tông nên đổi làm Tĩnh Giang, sau đổi làm Tĩnh Gia. Phủ Tĩnh Gia gồm 3 huyện: huyện Ngọc Sơn (tương đương với huyện Tĩnh Gia ngày nay); huyện Nông Cống (tương đương với các huyện Nông Cống, Như Thanh và Như Xuân ngày nay); huyện Quảng Xương (tương đương với phần đất huyện Quảng Xương ngày nay). 4) Phủ Thanh Ðô: sách "Ðại Nam nhất thống chí" chép: "... Ðời Lý, đời Trần mới khai thác, cuối đời Trần là đất trấn Thanh Ðô... Ðời Lê Quang Thuận đặt làm phủ Thanh Ðô, lệ vào Thanh Hoá Thừa Tuyên, lãnh một huyện (Thọ Xuân miền núi) và 5 huyện, châu, thủy cơ". Từ năm Minh Mệnh thứ 2 đến năm Khải Ðịnh thứ 10 (năm 1925), bản đồ địa giới hành chính tỉnh Thanh Hoá có thay đổi như sau: 1) Minh Mệnh thứ 2 (năm 1821) đổi phủ Thanh Ðô thành phủ Thọ Xuân. 2) Minh Mệnh thứ 7 (năm 1826) nhập huyện Lôi Dương vào phủ Thọ Xuân. 3) Minh Mệnh thứ 16 (năm 1835), đặt thêm phủ Quảng Hoá gồm 4 huyện là Vĩnh Lộc - Thạch Thành - Cẩm Thuỷ - Quảng Tế (bốn huyện này từ phủ Thiệu Hoá mà ra). Hợp nhất huyện Thọ Xuân (miền núi) vào châu Lang Chánh (huyện Thọ Xuân miền núi mất từ đây). 4) Minh Mệnh thứ 18 (năm 1837), đặt thêm châu Thường Xuân (lấy đất của các huyện Lôi Dương, châu Lang Chánh, huyện Nông Cống - châu Thường Xuân có từ đây). 5) Minh Mệnh thứ 19 (năm 1838) đặt thêm huyện Mỹ Hoá (lấy đất ở huyện Hoằng Hoá và huyện Hậu Lộc), đặt phân phủ Hà Trung. 6) Thiệu Trị thứ 3 (năm 1843) đổi tên Thanh Hoa thành Thanh Hoá, bỏ phân phủ Hà Trung. Huyện Hoằng Hoá kiêm luôn huyện Mỹ Hoá, (huyện Mỹ Hoá mất từ đây). Phủ Quảng Hoá kiêm thêm huyện Thạch Thành, huyện Quảng Tế và châu Quan Hoá. Phủ Thọ Xuân kiêm thêm châu Thường Xuân và châu Lang Chánh. 7) Thành Thái thứ 1 (năm 1889), huyện Thạch Thành kiêm luôn huyện Quảng Tế (tên huyện Quảng Tế mất từ đây). 8) Thành Thái thứ 5 (năm 1893) tách đất huyện Nông Cống (hai tổng Xuân Du và Lãng Lăng) đặt thành châu Như Xuân. 9) Thành Thái thứ 12 (năm 1900) đặt tri huyện Nga Sơn, tách huyện Thuỵ Nguyên đặt ra châu Ngọc Lặc. Huyện Thuỵ Nguyên nhập vào phủ Thiệu Hoá (tên huyện Thuỵ Nguyên mất từ đây). 10) Khải Ðịnh thứ 10 (năm 1925) đặt châu Tần Hoá (lấy đất 4 tổng của châu Quan Hoá là Thiết ống, Cổ Lũng, Sa Lung và Ðiền Lư). Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đổi tên châu Tần Hoá thành huyện Bá Thước. Cho đến sau năm 1954, bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hoá gồm 21 huyện, thị xã (các tên phủ, châu đều đổi thành huyện). Từ năm 1965 đến ngày 5-8-1999, sau nhiều lần sáp nhập và chia tách, bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hoá có 27 huyện, thị, thành phố với 633 xã, phường, thị trấn. Trần Thái Tông (năm 1242) đổi 24 lộ đời Lý thành 12 lộ, trong đó có Thanh Hoá phủ lộ. Năm Quang Thái thứ 10 (Trần Thuận Tông - năm 1397) đổi làm trấn Thanh Ðô. Trấn Thanh Ðô lúc này gồm 7 huyện và 3 châu (mỗi châu có 4 huyện). Trong đó, 7 huyện là:
1) Huyện Cổ Ðằng: một phần đất huyện Hoằng Hoá ngày nay.
2) Huyện Cổ Hoằng: một phần đất huyện Hoằng Hoá ngày nay.
3) Huyện Ðông Sơn: là huyện Ðông Sơn ngày nay
4) Huyện Cổ Lôi: huyện Thọ Xuân và một phần đất huyện Thường
Xuân ngày nay.
5) Huyện Vĩnh Ninh: là huyện Vĩnh Lộc ngày nay.
6) Huyện Yên Ðịnh: là huyện Yên Ðịnh ngày nay.
7) Huyện Lương Giang: là huyện Thiệu Hoá ngày. nay (dọc hai bờ
sông Chu) cùng một phần đất của huyện Thọ Xuân thuộc tả ngạn sông Chu.
Ba châu bao gồm:
1) Châu Thanh Hoá gồm: huyện Nga Lạc (là huyện Ngọc Lặc và một
phần đất huyện Thọ Xuân ngày nay); huyện Tế Giang (là vùng đất phía Tây huyện
Thạch Thành ngày nay); huyện Yên Lạc (là phía Ðông huyện Thạch Thành ngày
nay); huyện Lỗi Giang (là huyện Cẩm Thuỷ và Bá Thước ngày nay).
2) CHÂU ÁI gồm: huyện Hà Trung (phần lớn huyện Hà Trung và phía
Tây thị xã Bỉm Sơn ngày nay); huyện Thống Bình (tương đương với huyện Hậu Lộc
ngày nay); huyện Tống Giang (tương đương phía Bắc huyện Nga Sơn, Ðông Bắc
huyện Hà Trung và phía Ðông thị xã Bỉm Sơn ngày nay); huyện Chi Nga (tương
đương phía Nam huyện Nga Sơn ngày nay).
3) Châu Cửu Chân gồm: huyện Cổ Chiến (tương đương huyện Tĩnh Gia
ngày nay); huyện Kết Thuế (tương đương phía Bắc huyện Tĩnh Gia và phía Nam
huyện Quảng Xương ngày nay); huyện Duyên Giác (tương đương phía Bắc huyện
Quảng Xương, bao gồm cả Bố Vệ, ngày nay); huyện Nông Cống (bao gồm các huyện
Nông Cống, Như Thanh, Như Xuân và một phần huyện Triệu Sơn ngày nay).
Năm 1430, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hoá thành phủ Thiên Xương.
Sách 'Ðại Nam nhất thống chí' chép: 'Phủ này (tức phủ Thiên Xương) cùng Cửu
Chân và ái Châu làm 'tam phủ' gọi là Tây Ðô'. Thời thuộc Minh, trấn Thanh Ðô
đổi thành phủ Thanh Hoá (năm 1407 - theo Ðào Duy Anh). Sách 'Ðại Nam nhất
thống chí' cũng ghi: 'Thời thuộc Minh lại làm phủ Thanh Hoá, lãnh 4 châu là
Cửu Chân, ái Châu, Thanh Hoá, Quỳ Châu và 11 huyện'. Trong đó, 11 huyện là
Yên Ðịnh, Nông Cống, Vĩnh Ninh, Tống Giang, Cổ Ðằng, Nga Lạc, Lương Giang,
Lỗi Giang, Ðông Sơn, Yên Lạc, Cổ Lôi.
3. Thời Lý
Ðến thời Lý, năm
Thuận Thiên thứ nhất, Canh Tuất (năm 1010), nhà Lý 'đổi 10 đạo làm 24 lộ,
Châu Hoan, Châu ái làm Trại' (Toàn thư). Sách 'Toàn Thư' và 'Cương Mục' chỉ
chép tên 12 lộ trong đó có Thanh Hoá lộ. Tên Thanh Hoá có từ đây (Tân Mão -
1111). Diễn Châu lộ, Thanh Hoá lộ (tức Hoan Châu và ái Châu trước kia) thuộc
Trại để phân biệt với Kinh (là các lộ thuộc vùng Thăng Long).
4. Thời Ðinh - Lê
Thời Ðinh - Lê Thanh
Hoá vẫn là ái Châu. Ðào Duy Anh có ghi: 'Sử chép rằng: Ðinh Tiên Hoàng chia
nước làm 10 đạo, hiện không rõ danh hiệu và vị trí các đạo là thế nào. Chỉ
thấy sử cũ vẫn chép các châu đời Ðường như ái Châu, Hoan Châu, Phong Châu...
thì biết rằng danh hiệu các châu đời Ðường bấy giờ vẫn được dùng'. Có lẽ, các
huyện thuộc ái Châu vẫn giữ như cũ.
5. Thời Tùy - Ðường
Nhà Tùy (581 - 617)
đặt tên cũ là quận Cửu Chân (đổi châu thành quận). Quận Cửu Chân đời nhà Tùy
gồm 7 huyện: huyện Cửu Chân, huyện Di Phong, huyện Tư Phố, huyện Long An,
huyện Quận An, huyện An Thuận, huyện Nhật Nam. Sau khi tiêu diệt nhà Tùy, nhà
Ðường sắp xếp lại toàn bộ bộ máy hành chính và phân chia châu, quận. Năm Vũ
Ðức thứ 5 (năm 622), nhà Ðường đặt Giao Châu đại tổng quản phủ để quản lĩnh
10 châu, trong đó có ái Châu Cửu Chân quận (tức Thanh Hoá). ái Châu đời Ðường
gồm 6 huyện: huyện Cửu Chân, huyện An Thuận, huyện Sùng Bình, huyện Nhật Nam,
huyện Trường Lâm và huyện Quân Minh.
6. Thời thuộc Hán - Tam
Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc Triều (111 - 581)
Sang thời thuộc Hán
(111 trước công nguyên - 210), đất Thanh Hoá ngày nay là một phần quận Cửu
Chân, thuộc bộ Giao Chỉ. 'Tiền Hán thư' chép: quận Cửu Chân gồm 7 huyện là Tư
Phố, Cư Phong, Ðô Lung, Dư Phát, Vô Thiết, Vô Biên, Hàm Hoan.
Sang thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc Triều (210 - 581), theo
Ðào Duy Anh dẫn Tấn thư: cuối đời Ngô (Tam Quốc - Ðông Ngô, năm Nguyên Hưng
thứ nhất), Ðào Hoàng xin 'tách đất Cửu Chân mà đặt huyện Cửu Ðức'. Quận Cửu
Ðức tách ra là huyện Hàm Hoan đời Hán, phần đất tương đương với Nghệ An ngày
nay. Như vậy, quận Cửu Chân cuối thời Tam Quốc là phần đất tương đương với
Thanh Hoá ngày nay. Quận Cửu Chân thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc Triều
bao gồm 7 huyện: huyện Tư Phố, huyện Di Phong, huyện Trạm Ngô, huyện Sùng
Bình (theo Ðào Duy Anh, 2 huyện Kiến Sơ, Phù Lạc sáp nhập thành huyện Sùng
Bình ở cuối đời Ðường), huyện Thường Lạc, huyện Tùng Nguyên, huyện Quân Minh.
7. Thời Hùng Vương
Nước Văn Lang chia
làm 15 bộ, trong đó có bộ Cửu Chân. Bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang thời các
vua Hùng là miền đất rất khó xác định địa giới rành mạch, có thể bao gồm
Thanh Hoá, một phần đất Nghệ An và một phần đất phía Nam Ninh Bình ngày nay.
8. Thời thuộc Pháp
Thời
thuộc Pháp, tỉnh Thanh Hoá thuộc quản lý của triều đình Huế, có dinh công sứ
Pháp bên ngoài Hạc Thành; trong thành có các chức quan đầu tỉnh là tổng đốc,
bố chánh và án sát, dưới có các quan phủ và huyện, tri châu, dưới nữa là
chánh tổng, lý trưởng, (lý trưởng là quan qun lý xã do dân bâù và được quan
huyện thay mặt triều đình thừa nhận).
Thời thuộc Pháp, tỉnh Thanh Hoá thuộc quản lý
của triều đình Huế, có dinh công sứ Pháp bên ngoài Hạc Thành; trong thành có
các chức quan đầu tỉnh là tổng đốc, bố chánh và án sát, dưới có các quan phủ
và huyện, tri châu, dưới nữa là chánh tổng, lý trưởng, (lý trưởng là quan qun
lý xã do dân bâù và được quan huyện thay mặt triều đình thừa nhận). Số tổng,
xã, thôn làng như cũ nhưng từ huyện trở lên thì gọn lại còn 5 phủ, 9 huyện, 5
châu ở miền núi và 1 thuỷ c phường tức là "tổng nổi" của dân chài
lưới, đó là: - Phủ Hà Trung, phủ Thiệu Hoá, phủ Thọ Xuân, phủ Tĩnh Gia và phủ
Quan Hoá. - Huyện Nga Sơn, huyện Nông Cống, huyện Hậu Lộc, huyện Hoằng Hoá,
huyện Ðông Sơn, huyện Quảng Xương, huyện Cẩm Thuỷ, huyện Yên Ðịnh, huyện
Thạch Thành. - Châu Thường Xuân, châu Ngọc Lặc, châu Lang Chánh, châu Quan
Hoá, châu Như Xuân. - Một thủy cơ phường gồm 13 làng có chánh tổng đóng ở Bến
Ngự - Lò Chum, TP Thanh Hoá. Năm 1925, Pháp và triều đình Huế cắt 4 tổng:
Thiết ống, Cổ Lũng, Sa Lung và Ðiền Lư của châu Quan Hoá ra đặt thành một
châu mới gọi là Tân Hoá; ngoài 4 tổng hay là 4 mường: mường Khô (Ðiền Lư),
mường ống (Thiết ống), mường Khoàng (Cổ Lũng), mường Ai (Sa Lung) ra, Tân Hoá
còn bao gồm mường Lau (Ban Công), mường Kỷ (Kỳ Tân), mường Ca Gia (Văn Nho)
và mường Pa Khán (La Hán) nữa.
9. Sau
cách mạng tháng 8 năm 1945
Chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà qui định dưới tỉnh chỉ còn huyện
và xã cho nên không còn phủ và châu nữa, mặc dù các tên riêng vẫn như cũ.
Riêng phủ Qung Hoá đổi thành huyện Vĩnh Lộc, châu Tân Hoá đổi thành huyện Bá
Thước để kỷ niệm Cầm Bá Thước.
Như vậy, tỉnh Thanh Hoá gồm 9 huyện cũ cộng với 5 huyện do phủ đổi thành và 6 huyện do 6 châu đổi thành là 20 huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ. Từ tháng 5/1954 qui định dưới huyện thì xã là cấp hành chính nhỏ nhất, các huyện đặt lại tên xã mới theo nguyên tắc lấy một chữ của tên huyện đặt trước hoặc sau tên cũ của xã hoặc làng, hoặc thôn thành tên xã như hiện nay, trừ một số huyện miền núi và riêng huyện Tĩnh Gia, Nông Cống thì không làm như vậy. Năm 1965, Chính phủ thành lập một huyện mới bằng việc tháp nhập 20 xã của Nông Cống và 13 xã của Thọ Xuân thành huyện Triệu Sơn. Năm 1977, Chính phủ quyết định sáp nhập các huyện: - Nga Sơn và Hà Trung thành huyện Trung Sơn, huyện lỵ là Lèn. - Thiệu Hoá (tả ngạn sông Chu) và Yên Ðịnh thành huyện Thiệu Yên, huyện lỵ ở Kiểu (xã Yên Trường). - Thiệu Hoá (hữu ngạn sông Chu) và Ðông Sơn thành huyện Ðông Thiệu, huyện lỵ ở Rừng Thông (xã Ðông Xuân). Từ năm 1981, Ðông Thiệu gọi là Ðông Sơn. - Ngọc Lặc và Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc, huyện lỵ ở phố Cống (xã Ngọc Khê). - Vĩnh Lộc và Thạch Thành thành huyện Vĩnh Thạch, huyện lỵ ở phố Giáng (Vĩnh Thành). Năm 1981, Chính phủ lại tách các huyện Trung Sơn thành Hà Trung và Nga Sơn, Lưng Ngọc thành Lang Chánh và Ngọc Lặc, Vĩnh Thạch thành Vĩnh Lộc và Thạch Thành như cũ. Năm 1981, Chính phủ thành lập 2 thị xã mới là Bỉm Sơn và Sầm Sơn. Ngày 1/5/1994, tại Nghị định số 07/CP, Chính phủ quyết định thành lập thành phố Thanh Hoá trên cơ sở hành chính thị xã Thanh Hoá. Ngày 18/11/1996, Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ra Nghị định số 72/CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện: - Huyện Quan Hoá chia thành 3 huyện: Quan Hoá, Quan Sn, Mường Lát. - Huyện Như Xuân chia thành 2 huyện: Như Xuân, Như Thanh. - 2 huyện Ðông Sơn và Thiệu Yên thành 3 huyện: Ðông Sơn, Thiệu Hoá, Yên Ðịnh. Ngày 6/12/1996, UBND tỉnh Thanh Hoá đã có chỉ thị số 31 TC/UB thực hiện Nghị định 72/CP. Theo chỉ thị này, từ ngày 1/1/1997, các huyện chính thức hoạt động theo đn vị hành chính mới gồm 24 huyện, 2 thị xã, 1 thành phố. |
Cộng đồng các Họ Tộc Việt Nam
Thứ Hai, 20 tháng 4, 2015
HỌ VĂN QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG VÀ THANH BA THANH HOÁ
NHIỀU GIA PHẢ HỌ VĂN QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG GHI GỐC TỪ THANH BA (THANH HOÁ)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét